Thứ Sáu, 22 tháng 1, 2021

WILLIAM BLAKE - Thơ và Đời

 

William Blake (28 tháng 11 năm 1757 – 12 tháng 8 năm 1827) – là nhà thơ, hoạ sĩ Anh, một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ XVIII. Thơ ca của William Blake là một hiện tượng, chuyển từ thơ ca thế kỉ Ánh sáng sang thơ ca Lãng mạn của Keats, Shelley, Byron. Năm 1957 Hội đồng Hòa bình Thế giới kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông. Năm 2002 đài BBC bầu chọn 100 người Anh vĩ đại nhất mọi thời đại, William Blake được bầu ở vị trí 38.
 
Tiểu sử
William Blake sinh ở Broad Street, Golden Square, London, là con trai của một nhà buôn hàng vải. Lên 10 tuổi bắt đầu học vẽ, năm 1778 vào học Royal Academy ở Old Somerset House. Năm 1880 công bố bức tranh đầu tiên. Năm 1873 bạn bè bỏ tiền in cho cuốn Những phác họa thơ ca (Poetical Sketches). Đến năm 30 tuổi William Bake chỉ được một số ít người biết đến nhưng bắt đầu nổi tiếng sau khi minh hoạ cho cuốn Những suy ngẫm về đêm (Night Thoughts).
  Năm 1782, Blake gặp Catherine Boucher, người sau đó trở thành vợ ông. Trong thời gian này, Blake đang hồi phục sau mối quan hệ mà đỉnh điểm là bị từ chối lời cầu hôn. Blake kể lại chi tiết câu chuyện đau buồn này cho Catherine và bố mẹ cô nghe, sau đó ông hỏi cô gái: “Em có thương hại anh không?” Khi Catherine trả lời bằng câu khẳng định, Blake thú nhận: “Vậy thì anh yêu em”. William Blake và Catherine Boucher, người kém ông 5 tuổi, đã kết hôn tại nhà thờ St.Mary ở Battersea. Không biết chữ, Catherine đã đánh dấu X vào giấy đăng ký kết hôn thay vì chữ ký. Sau đó, ngoài việc dạy Catherine đọc và viết, Blake còn dạy cô nghệ thuật chạm khắc. Trong suốt cuộc đời, Blake hiểu sự giúp đỡ và hỗ trợ của người phụ nữ này là vô giá như thế nào đối với ông. Giữa vô số thất bại, Catherine đã không để ngọn lửa cảm hứng tắt ngấm trong tâm hồn chồng, đồng thời cô tham gia vào việc in nhiều tranh minh họa của ông.
Năm 1818 Blake làm quen và kết bạn với họa sĩ trẻ John Linnell, người gợi ý và tài trợ cho Blake vẽ minh hoạ cuốn Job của Kinh Thánh. Sau đó, cũng với sự giúp đỡ của John Linnell, Blake vẽ những bức tranh minh hoạ cho phần Địa ngục (Inferno) của Dante.
Về thơ ca, William Blake cũng là một trong những nhà thơ hàng đầu. Thơ của Blake bao gồm thơ trữ tình và thơ triết học. Năm 1789 ông in cuốn Những bài hát ngây thơ (Songs of Innocence), gồm những bài thơ và hình minh hoạ. Năm 1794 Những khúc hát ngây thơ (Songs of Innocence), in cùng Những bài hát kinh nghiệm (Songs of Experience). Blake đón chào Cách mạng Pháp bằng trường ca Cách mạng Pháp (The French Revolution, 1791).
Những năm cuối đời Blake sống tại Fountain Court gần phố Strand (ngôi nhà nơi ông sống đã bị phá hủy trong quá trình xây dựng khách sạn Savoy). Vào ngày ông qua đời, Blake đã làm việc không ngừng nghỉ để vẽ tranh minh họa cho tác phẩm của Dante. Ông gác công việc sang một bên và quay sang vợ, người lúc nào cũng ngồi trên giường cạnh ông, không kìm được nước mắt. Nhìn cô, ông thốt lên: “Em ơi, Kate, em hãy ngồi yên, anh sẽ vẽ chân dung của em ngay bây giờ. Em mãi mãi là thiên thần của anh”. Sau khi hoàn thành bức chân dung (giờ đã mất), Blake đặt bút vẽ sang một bên và bắt đầu hát những bài thánh ca và đọc thơ. Vào 6 giờ chiều cùng ngày, sau khi hứa với vợ rằng ông sẽ ở bên cô mãi mãi, Blake đã qua đời. Một người phụ nữ sống cùng nhà và có mặt trong phút lâm chung của Blake nói: “Tôi thấy cái chết dường như không phải của con người mà là của một thiên thần may mắn”.
Từ năm 1965, vị trí chính xác của mộ William Blake đã bị mất, nghĩa trang bị hư hại nặng nề trong chiến tranh Thế giới thứ hai, các di tích bị dỡ bỏ và một khu vườn được hình thành tại khu chôn cất. Ký ức về nhà thơ đã được bất tử hóa bằng tấm bia với dòng chữ “Gần nơi này là di cốt của nhà thơ, họa sĩ William Blake (1757-1827) và vợ Catherine Sophia (1762-1831)”, nó nằm cách nơi chôn cất thực tế khoảng 20 mét. Vị trí chính xác của ngôi mộ do một cặp vợ chồng người Bồ Đào Nha, Carol và Luís Garrido phát hiện sau 14 năm điều tra và tìm kiếm. Hội Blake đã tổ chức buổi lễ tưởng niệm và đặt một bia mộ trên đó với dòng chữ “William Blake 1757-1827, nhà thơ, họa sĩ, nhà tiên tri yên nghỉ ở đây” cùng với những dòng từ bài thơ “Jerusalem” của ông, bia mộ được khánh thành ngày 12 tháng 8 năm 2018.
 
Từ sau năm 1790, Blake xuất bản một loạt sách có minh hoạ, gồm:  
- Đám cưới của Thiên đường và Địa ngục (The Marriage of Heaven and Hell)
- Cách ngôn của Địa ngục (Proverbs of Hell)
- Cuốn sách đầu của Urizen (The First Book of Urizen)
- Nước Mỹ và tiên tri (America, a Prophecy)
- Sách Ahania (The Book of Ahania)
- Bài ca của Los (The Song of Los)
- Sách của Los (The Book of Los)
- Châu Âu (Europe)
- Vala, giấc mộng của chín đêm (Vala, a Dream of Nine Nights)
- Jerusalem (Jerusalem)
- Sách Phúc âm muôn thuở (The Everlasting Gospel)
            - Milton: Thơ (Milton: a Poems)



47 bài thơ Song Ngữ




Tình yêu tan vỡ


 
TÌNH YÊU TAN VỠ
 
1
Bóng ma của tôi suốt đêm suốt ngày
Như con thú vẫn rình rập quanh tôi
Sự khởi nguồn của tôi không ngừng nghỉ
Vẫn khóc than cho tội lỗi của tôi.
 
2
Trong chiều sâu vô tận và vô cùng
Ta lang thang lặng lẽ, ta khóc thầm
Trong cơn gió đói và cơn gió khát
Bóng ma tôi len lỏi đến gần em.
 
3
Nó đi lần trên tuyết dấu chân em
Dù em đi đâu, dù xa hay gần
Cho dù mưa giông, cho dù mưa đá
Có khi nào em quay trở về không?
 
4
Chẳng phải tự hào, khinh bỉ của em
Làm buổi sáng của tôi thành cơn giông
Chẳng phải vì ghen tuông và sợ hãi
Để tôi hằng đêm nước mắt tuôn ròng?
 
5
Chẳng phải bảy lần con dao của em
Làm cho cuộc đời, tình yêu đau thương
Và tôi xây bảy ngôi mồ cẩm thạch
Bằng giọt nước mắt lạnh lẽo rùng mình.
 
6
Và bảy người yêu nữa khóc đêm ngày
Quanh nấm mồ, nơi tình yêu của tôi
Bảy người yêu khác mỗi đêm lại đến
Bên chiếc giường với ngọn đuốc trong tay.
 
7
Bảy người yêu cúi xuống trong đau buồn
Đội vương miện cho kẻ nằm trên giường
Với tấm lòng bao dung và thương hại
Tha thứ cho em tất cả lỗi lầm.
 
8
Có khi nào em quay trở về không
Để làm cho sống lại những người tình?
Để cho tôi thôi tuôn dòng nước mắt
Và bỏ qua như tôi đã từng không?
 
9
Không quay về – anh đừng đợi đừng trông
Tôi là người chiến thắng nhạo cười anh
Khi còn sống – tôi là người yêu dấu
Khi chết rồi – là ngôi mộ của anh.
 
10
Qua mặt đất, địa ngục và thiên đường
Không còn rào cản và không ngại ngùng
Chuyến bay của tôi kéo dài xuyên suốt
Xuyên suốt những ngày xuyên suốt những đêm.
 
11
Bộ dạng nhợt nhạt, xanh xao, đáng thương.
Rằng tôi đang theo sau một cơn giông
Nước mắt, tiếng rên giống như chì nặng
Trói quanh đầu tôi chẳng khác gông xiềng.
 
12
Tôi khóc trong vô vọng trước vô biên
Cho đến khi với tình tôi quay lưng
Và sau đó để hoàn toàn có thể
Xứng đáng bước vô trong cõi vĩnh hằng.
 
13
Và để cho nhạo báng khỏi nhân lên
Trên vách đá tôi đành hủy diệt em
Rồi sẽ tạo ra một hình thức khác
Để phụng sự cho số phận của mình.
 
14
Và thế rồi xuyên suốt cả vĩnh hằng
Em tha thứ cho tôi, tôi cho em
Giống như những lời từng ban của Chúa:
“Đây là bánh mì, còn đây rượu vang”*.
_____________________

1)Bài thơ này được Blake đánh số đầu tiên có 14 khổ. Tuy nhiên, trong các ấn bản tiếng Anh khác nhau có thể có 15 hoặc 17 khổ nhưng cũng chỉ đánh số 14 là khổ cuối cùng. Điều này cho phép chúng tôi dịch theo số khổ mà chúng tôi cho là tự nhiên và hợp lý nhất.
 
2)Đây là một trong những bài thơ quan trọng nhất của William Blake có chủ đề liên quan mật thiết đến các tác phẩm lớn trong thời kỳ trưởng thành của ông. Trong bản gốc nó không có tên, tức là nó được đặt theo dòng đầu tiên: “My Spectre around me night & day”. Trong lần xuất bản đầu tiên của anh em Rossetti (1863), nó có tựa đề “Broken Love” (Tình yêu tan vỡ). Và trong ấn bản của Yeats (1905), được đổi tên thành “Spectre and Emanation” (Bóng ma và sự khởi nguồn), và những cái tên này vẫn được giữ nguyên tùy lúc, tùy theo người gọi.
Bài thơ bắt đầu bằng lời tự sự của tác giả, sau đó chuyển thành cuộc đối thoại giữa hồn ma và sự khởi đầu, cho thấy mối bất hòa sâu sắc của họ, khiến một người đau khổ. Trong bài thơ này, Blake được cho là đã miêu tả và phân tích một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Có vẻ như cuộc đối thoại này phản ánh một số loại hoàn cảnh gia đình tương tự, và trong trường hợp này, nó có thêm sự quan tâm về tiểu sử. Cuộc hôn nhân của Blake với Catherine Boucher, con gái của một người làm vườn giản dị, vô cùng hạnh phúc. Blake dạy cô đọc, viết và vẽ, cho cô một nền giáo dục, theo nghĩa đen là “tạo ra” cô, khiến cô trở thành hiện thân thực sự của ông. Hòa bình, hòa hợp và tình yêu luôn ngự trị trong mối quan hệ của họ, Catherine luôn giúp đỡ và hỗ trợ William. Tuy nhiên, mối quan hệ này không phải lúc nào cũng cơm lành canh ngọt, có những giai đoạn phức tạp, hiểu lầm, khác biệt về quan điểm, điều này được gợi ý trong một số tác phẩm của Blake, mà đặc biệt là trong tác phẩm này.
 
*Ở đây Blake trích dẫn những lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ, về Bí tích Thánh Thể, hoặc về Tiệc Thánh do Ngài thiết lập trong Bữa Tiệc Ly: “26Khi đương ăn, Đức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn rồi, bẻ ra đưa cho môn-đồ mà rằng: Hãy lấy ăn đi, nầy là thân-thể ta. 27Ngài lại lấy chén, tạ ơn rồi đưa cho môn-đồ mà rằng: Hết thảy hãy uống đi; 28vì nầy là huyết ta, huyết của sự giao-ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội. 29Ta phán cùng các ngươi, từ rày về sau, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày mà ta sẽ uống trái nho mới cùng các ngươi ở trong nước của Cha ta”. (Phúc âm Ma-thi-ơ, 26: 26-29; Xem thêm Mác, 14: 22 – 24; Luca, 22: 19 – 20).
 

Broken Love
 
1
MY Spectre around me night and day
Like a wild beast guards my way;
My Emanation far within
Weeps incessantly for my sin.
 
2
‘A fathomless and boundless deep,
There we wander, there we weep;
On the hungry craving wind
My Spectre follows thee behind.
 
3
‘He scents thy footsteps in the snow
Wheresoever thou dost go,
Thro’ the wintry hail and rain.
When wilt thou return again?
 
4
’Dost thou not in pride and scorn
Fill with tempests all my morn,
And with jealousies and fears
Fill my pleasant nights with tears?
 
5
‘Seven of my sweet loves thy knife
Has bereavèd of their life.
Their marble tombs I built with tears,
And with cold and shuddering fears.
 
6
‘Seven more loves weep night and day
Round the tombs where my loves lay,
And seven more loves attend each night
Around my couch with torches bright.
 
7
‘And seven more loves in my bed
Crown with wine my mournful head,
Pitying and forgiving all
Thy transgressions great and small.
 
8
‘When wilt thou return and view
My loves, and them to life renew?
When wilt thou return and live?
When wilt thou pity as I forgive?’
 
9
‘Never, never, I return:
Still for victory I burn.
Living, thee alone I’ll have;
And when dead I’ll be thy grave.
 
10
‘Thro’ the Heaven and Earth and Hell
Thou shalt never, quell:
I will fly and thou pursue:
Night and morn the flight renew.’
 
11
‘Poor, pale, pitiable form
That I follow in a storm;
Iron tears and groans of lead
Bind around my aching head.
 
12
‘Till I turn from Female love
And root up the Infernal Grove,
I shall never worthy be
To step into Eternity.
 
13
‘And, to end thy cruel mocks,
Annihilate thee on the rocks,
And another form create
To be subservient to my fate.
 
14
‘And throughout all Eternity
I forgive you, you forgive me.
As our dear Redeemer said:
“This the Wine, and this the Bread.”’
1800-1803




 

Những lời tiên đoán ngây thơ

 

NHỮNG LỜI TIÊN ĐOÁN NGÂY THƠ
(Trích một số khổ)
 
Trong hạt cát ta nhìn ra Thế giới
Cả Thiên đường trong một bông hoa dại
Trong một giờ khắc có cả Vĩnh hằng
Và Vô tận trong bàn tay giữ lấy.
………………………..
……………………….
Và cứ mỗi đêm và cứ mỗi ngày
Có những đứa trẻ sinh ở đâu đây.
Cứ mỗi ngày rồi mỗi đêm như vậy
Có người sinh ra sung sướng suốt đời
Có người sinh ra suốt đời khổ ải
Họ sinh ra trong bất tận đêm dài.
 
……………………………
……………………………
Chúng ta dễ tin những điều gian dối
Khi mắt ta nhìn mà không nhìn thấy
Sinh ra trong đêm rồi chết trong đêm
Khi hồn ngủ quên trong ánh sáng chùm.
 
Và Chúa xuất hiện, Chúa là ánh sáng
Cho những linh hồn tội nghiệp trong đêm
Nhưng trong hình dáng của con người trần
Cho những ai đã quen cùng ánh sáng.
 
Auguries of Innocence
 
To see a World in a grain of sand,
And a Heaven in a wild flower,
Hold Infinity in the palm of your hand,
And Eternity in an hour.
…………………..
………………….. 
Every Night and every Morn
Some to Misery are Born.
Every Morn and every Night
Some are Born to sweet delight.
Some are Born to sweet delight,
Some are Born to Endless Night.
………………..
………………..
We are led to believe a lie
When we see not thro' the eye,
Which was born in a night to perish in a night,
When the soul slept in beams of light.
 
God appears, and God is light,
To those poor souls who dwell in night;
But does a human form display
To those who dwell in realms of day.



 

Con ruồi


 
CON RUỒI

Tội nghiệp cho con ruồi
Đang đùa vui, ca hát
Bàn tay tôi bóp nát
Do vô ý mà thôi.

Chẳng lẽ không phải tôi
Cũng con ruồi như bạn?
Và ai nói ruồi chẳng
Cũng con người như tôi?

Tôi đang uống rượu đây
Đang hát hò, vui nhộn
Đến khi tay mù quáng
Giơ ra chộp lấy tôi.

Nếu suy nghĩ là đời
Là sức mạnh, hơi thở
Nơi không còn suy nghĩ
Là kết thúc cuộc đời.

Và như vậy thì tôi
Một con ruồi hạnh phúc
Cho dù tôi đã chết
Hay vẫn còn sống đây.

The Fly

Little Fly
Thy summers play,
My thoughtless hand
Has brush'd away.

Am not I
A fly like thee?
Or art not thou
A man like me?

For I dance
And drink & sing:
Till some blind hand
Shall brush my wing.

If thought is life
And strength & breath:
And the want
Of thought is death;

Then am I
A happy fly,
If I live,
Or if I die.




Thơ mộ chí

 

THƠ MỘ CHÍ
 
Người qua đây hãy đập đầu vào đá
John Thompsons ở nơi này yên nghỉ.
 
An Epitaph
 
Come knock your heads against this stone
For sorrow that poor John Thompsons gone.
 


Tôn thờ Ma quỉ

 

TÔN THỜ MA QUỈ
 
Từ Ma quỉ, từ những bậc Đế vương
Ta có được tất cả sự giàu sang.
Tôi sợ mang tiếng tôn thờ Ma quỉ
Nếu cám ơn Trời vì những điều trên.
 
Since all the riches of this world
 
Since all the riches of this world
May be gifts from the Devil and earthly kings,
I should suspect that I worshipp'd the Devil
If I thank'd my God for worldly things.



Thiên thần của tôi

 

THIÊN THẦN CỦA TÔI
 
Thiên thần của tôi cúi xuống bên nôi
Và nói rằng: “Cứ sống ở trên đời
Với niềm hạnh phúc, với nhiều vui vẻ
Nhưng đừng mong sự giúp đỡ của ai”.
 
The Angel that presided o'er my birth
 
The Angel that presided o'er my birth
Said, 'Little creature, form'd of Joy and Mirth,
'Go love without the help of any Thing on Earth.'



 

Cả đời đã yêu thương

 


CẢ ĐỜI ĐÃ YÊU THƯƠNG
 
Cả đời tôi đã cháy lên bằng lửa yêu thương
Giờ tôi muốn địa ngục, đã ngán thiên đường.
 
Grown old in Love from Seven till Seven times Seven
 
Grown old in Love from Seven till Seven times Seven
I oft have wishd for Hell for Ease from Heaven.


Gọi tôi là thiên tài

 

GỌI TÔI LÀ THIÊN TÀI
 
Đời phải gọi tôi là một thiên tài:
Không yêu Flaxman, không khen Hayley.
 
My title as a genius thus is prov'd
 
My title as a genius thus is prov'd:
Not prais'd by Hayley, nor by Flaxman lov'd.
 


Gửi Flaxman

 

GỬI FLAXMAN
 
Anh cười nhạo tôi – cứ việc tự nhiên
Tôi không cười anh một cách bí mật
Cứ việc gọi tôi là một thằng điên
Còn tôi gọi anh là đồ ngu ngốc.
 
To F[laxman]
 
I mock thee not, though I by thee am mocked;
Thou cal'st me madman, but I call thee blockhead.